Ngành: công ty xuất khẩu mủ cao su
Ngành: công ty xuất khẩu mủ cao su
Nhà sản xuất Lô cao su công nghệ Hàn Quốc
Công Ty TNHH Hàn Việt Lô Cao Su được thành lập với ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất kinh doanh quả lô cao su, lô silicone, gia công chế tạo trục lô mới theo bản vẽ, bọc mới tất cả các loại chất liệu bằng cao su và Silicone, gia công mài mới lại bề mặt lô, sửa chữa tất cả các chủng loại về lô bị hỏng như thay đầu trục, sửa đầu trục, cân bằng động. Sửa chữa theo yêu cầu của Quý khách hàng. - Hiện tại, Hàn Việt Lô Cao Su là Công ty có thị phần và uy tín được khách hàng tín nhiệm và đánh giá là nhà cung cấp hàng đầu tại Việt Nam lớn nhất về mảng sản xuất và sửa chữa quả lô cao su, lô silicone phục vụ cung cấp cho ngành Điện tử, ngành Giấy, ngành Dệt Nhuộm, ngành Bao Bì, ngành in, và các ngành công nghiệp khác.
Hội thảo quốc tế về chia sẻ một số kết quả, kinh nghiệm của doanh nghiệp và cao su tiều điền đã đạt chứng chỉ quốc tế về quản lý bền vững rừng cao su và chuỗi hành trình sản phẩm, đồng thời xây dựng kết nối với thị trường, đã thu hút được gần 250 đại biểu từ nhiều quốc gia: Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan, Indonedia, Pháp, Đức, Italia, Thuỵ Sỹ… Sự kiện diễn ra ngày 22/09/2021 theo hình thức trực tuyến do Chương trình Xác nhận chứng nhận rừng quốc tế (PEFC) tổ chức.
Hội thảo cũng nhận được sự quan tâm và tham dự từ các công ty sản xuất ô tô, sản xuất lốp xe hơi lớn trong khu vực, thành viên các tổ chức Quốc tế về phát triển cao su thiên nhiên bền vững và đại diện các tổ chức phi chính phủ về các vấn đề môi trường, xã hội.
Ông Richard Laity, Quản lý khu vực Đông Nam Á của PEFC cho biết, cao su thiên nhiên là nguyên liệu thiết yếu để tạo ra hơn 40.000 loại sản phẩm và nằm trong chuỗi cung ứng trị giá 300 tỷ USD hàng năm.
Bên cạnh cao su đại điền, sản phẩm cao su còn được canh tác và thu hoạch bởi sự nỗ lực của hàng triệu tiểu điền đang cố gắng đạt được và duy trì sinh kế bền vững. Khoảng 85% sản lượng cao su được khai thác bởi các hộ tiểu điền trong khu vực Đông Nam Á.
"Sản xuất loại cao su này một cách bền vững là điều cần thiết đối với sức khỏe lâu dài của các khu rừng trên thế giới - đặc biệt là các khu rừng ở Đông Nam Á”, ông Richard Laity nhấn mạnh.
Theo ông Richard Laity, PEFC là hệ thống chứng chỉ rừng lớn nhất trên thế giới và là lựa chọn của các chủ rừng nhỏ, với hơn 300 triệu ha trên 49 hệ thống quốc gia đạt tiêu chuẩn bền vững của PEFC. Có trụ sở chính tại Geneva (Thụy Sĩ), PEFC được công nhận về vai trò cung cấp đánh giá độc lập, chứng thực và công nhận các hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia. PEFC có mối quan hệ rộng rãi với các bên liên quan khắp Đông Nam Á, đây là nơi sản xuất phần lớn cao su thiên nhiên trên thế giới.
Quản lý rừng bền vững và chứng nhận chuỗi hành trình sản phẩm là những khái niệm mới đối với ngành sản xuất và chế biến các sản phẩm từ cao su.
Thông qua các dự án thí điểm mà PEFC và các thành viên của các quốc gia thực hiện với các tổ chức, doanh nghiệp, nhóm hộ tiểu điền trong khu vực Đông Nam Á đã chứng minh việc thực hiện chứng chỉ này là hoàn toàn khả thi và cần thiết đối với ngành cao su.
Bên cạnh loại hình chứng nhận đơn cho các chủ rừng là các công ty, nhờ hợp tác với những cao su tiểu điền ở tất cả các quy mô, PEFC đã áp dụng thành công loại hình Chứng nhận theo nhóm, cho phép các tiểu điền phối hợp và triển khai các biện pháp quản lý bền vững cùng nhau.
"Kinh nghiệm từ những người tham gia các dự án thí điểm đã mang lại giá trị quý giá cho ngành cao su trong việc thực hiện chứng nhận PEFC”, ông Richard Laity khẳng định.
Tại hội thảo, các đại biểu từ nhiều quốc gia: Việt Nam, Thái Lan, Malaysia… đã chia sẻ những thông tin chi tiết về những thành công từ các dự án thí điểm mà PEFC đã triển khai trong ngành cao su.
Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam cho biết, hiện nay diện tích cao su của cả nước đạt khoảng 1 triệu ha, với gần 70% diện tích đang cho thu hoạch mủ. Doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu là các công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) hiện đang nắm giữ khoảng 38,4% trong tổng diện tích, các hộ gia đình nắm giữ 51,9% và phần còn lại (9,7%) là phần diện tích của các công ty tư nhân.
Tại Việt Nam, Cơ quan thành viên quốc gia của PEFC-VFCS (Hệ thống chứng chỉ rừng Việt Nam) được vận hành dưới sự quản lý của Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam đã kết nối và hướng dẫn VRG tạo điều kiện hỗ trợ cho các thành viên trong tập đoàn, xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và đăng ký thực hiện chứng chỉ rừng.
PEFC đã thí điểm chứng nhận sản phẩm cao su thiên nhiên và gỗ cao su cho cả đại điền và tiểu điền ở Việt Nam. Bên cạnh loại hình chứng nhận đơn cho các chủ rừng là các công ty, nhờ hợp tác với những cao su tiểu điền ở tất cả các quy mô, PEFC đã áp dụng thành công loại hình chứng nhận theo nhóm, cho phép các hộ tiểu điền phối hợp và triển khai các biện pháp quản lý bền vững cùng nhau.
Ông Diệp Xuân Trường, thành viên Ban Chỉ đạo Phát triển bền vững thuộc VRG thông tin, đến tháng 8/2021, đã có trên 54.500 ha cao su của 12 công ty thành viên VRG được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững VFCS/PEFC-FM và 22 nhà máy chế biến mủ cao su được cấp chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm PEFC-CoC.
Tổng sản lượng mủ cao su có chứng chỉ ước tính đạt hơn 60.000 tấn, và hơn 300.000 m3 gỗ cao su đạt chứng chỉ VFCS/PEFC. VRG dự kiến đến cuối năm 2021 có trên 268.000ha cao su tại Việt Nam hoàn thành phương án quản lý rừng bền vững, trong đó, khoảng 100.000ha có chứng chỉ VFCS/PEFC-FM và khoảng 38 nhà máy chế biến có chứng chỉ PEFC-CoC…
Sản phẩm cao su đạt chứng chỉ PEFC của VRG được nhiều thị trường mới đón nhận và giá thành sản phẩm bán ra cũng cao hơn. Chứng chỉ PEFC mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp cả về mặt quản lý sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Gia đình anh Dương Văn Lương ở thôn 7 xã Xuân Bình, huyện Như Xuân có 4 ha cao su đang ở thời kì thu hoạch mủ. Từ đầu năm đến nay, giá mủ cao su mua tại vườn có giá giao động từ 18- 22 nghìn đồng 1 kg, cao hơn 8 -10 nghìn đồng 1kg so với cùng kì năm ngoái. Với giá bán như hiện nay, 4 ha cao su của gia đình anh Lương sẽ thu trên 10 tấn mủ trị giá trên 200 triệu đồng.
Anh Dương Văn Lương, thôn 7, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa chia sẻ: "Bà con làm cao su rất phấn khởi, bình quân 1 ha làm cao su của người mang lại thu nhập tháng 7-9 triệu. So với cùng kì năm ngoái tăng gần gấp đôi, thu đến đâu thương lái đến mua gọn. Cuộc sống người trồng cao su ổn định hơn".
Trong những năm qua khi giá cao su xuống thấp, nhiều hộ gia đình không mặn mà chăm sóc và khai thác, huyện Như Xuân đã tập trung chỉ các địa phương tuyên truyền, vận động Nhân dân khắc phục khó khăn giữ diện tích cao su, không chặt bỏ chuyển sang trồng cây khác.
Như Xuân hiện có trên 2579 ha cây cao su đang cho thu hoạch mủ. Với giá bán từ 18- 22 nghìn đồng 1kg mủ tươi như hiện nay thì mỗi ha cao su khai thác tích cực sẽ cho doanh thu từ 75-80 triệu đồng 1 ha.
Ông Ngô Hải Nam, Phó Chủ tịch UBND xã Xuân Bình, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa cho biết: "Bà con trồng cao su rất phấn khởi, với giá cao su hiện tại rơi vào khoảng 20-22 ngàn 1 kg. Địa phương sẽ chỉ đạo cho bà con tập trung chăm sóc bón phân đảm bảo duy trì diện tích đang khai thác, đối với diện tích đã hết thời gian khai thác có thể trồng lại mới".
Ông Nguyễn Minh Hải, Phó Chủ tịch UBND xã Bãi Trành, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Ông Nguyễn Minh Hải, Phó Chủ tịch UBND xã Bãi Trành, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa cho biết: "Không biết giá cao su tăng có giữ được lâu dài hay không, trước mắt Nhân dân phấn khởi. Xã tuyên truyền vận động Nhân dân cây cao su là loại cây chủ lực đảm bảo cho cho phát triển kinh tế. Hiện nay, trên địa bàn có 380 ha đang khai thác, dự kiến bình quân cho thu nhập từ 70-100 triệu đồng 1 năm".
Trong thời gian tới, huyện Như Xuân tiếp tục chỉ đạo các hộ trồng cao su chăm sóc, khai thác đúng kỹ thuật để đảm bảo hiệu quả lâu dài của cây công nghiệp này.
Địa điểm: KCN Giang Điền, Tỉnh Đồng Nai.
CSVN – Năm 1897, sau nhiều lần di nhập và trồng thử nghiệm thất bại, cây cao su đã có mặt tại Việt Nam. Từ đó người Pháp dần dần chiếm đất thành lập các đồn điền cao su tại Nam Bộ và cùng với nó là sự ra đời của đội ngũ công nhân cao su.
Công việc của họ là khai hoang, ươm giống, lai ghép, trồng, chăm sóc và cạo mủ dưới sự cai trị và bóc lột của các chủ đồn điền cấu kết với chính quyền thực dân, phong kiến.
Theo tác giả Đặng Văn Vinh (nguyên Tổng Cục phó Tổng Cục Cao su Việt Nam) trong tác phẩm 100 năm cây cao su ở Việt Nam – Nhà xuất bản Nông nghiệp, xuất bản năm 2000. Và theo Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam (1929-2014) của Công đoàn Cao su Việt Nam, nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2014 (tái bản bổ sung) chúng tôi tổng hợp lại tiến trình lịch sử quá trình hình thành và phát triển lịch sử cạo mủ cao su ở Việt Nam, một công trình có ý nghĩa chào mừng 92 năm ngày truyền thống ngành cao su Việt Nam (28/10/1929 – 28/10/2021).
Tác giả Đặng Văn Vinh cho biết “Như vậy, những cây cao su đưa lẻ tẻ vào nước ta từ năm 1884 trở về trước đã không để lại dấu vết, phải đợi đến đợt nhập giống quy mô lớn do ông E.Ruol thực hiện năm 1897 mở đầu cho việc thực nghiệm cây H.B trên diện rộng ở miền Nam Trung bộ và ở Nam bộ thì cây H.B mới chính thức thâm nhập vào Việt Nam”… “Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp Nam kỳ năm 1910 thì các cây cao su đầu tiên năm 1898 được trồng trong một vùng đất trũng, ẩm thấp nên chỉ còn 300 cây, phát triển không đồng đều. Vì vậy đến năm 1906 vẫn chưa mở miệng cạo được. Trên một vùng đất cao, cây cao su mọc tốt, cao to, nhưng chỉ còn 90 cây, được mở cạo năm 1908 (tức là 10 năm sau khi trồng)”.
“Các cây cao su do vườn thực vật Sài Gòn gởi cho Yersin, có thể được trồng vào khoảng tháng 10, tháng 11 năm 1897 trên khu A, bên tả ngạn con suối mang tên Suối Dầu”. Từ những tư liệu đó có thể khẳng định cây cao su được trồng thành công năm 1897 tại Việt Nam và được mở miệng cạo sau 7 năm trồng. “Trong thư gởi thường kỳ một tháng hai lần cho mẹ, ngày 11/12/1904, Yersin báo tin vui: “Kết quả cạo mủ thử ở Suối Dầu rất đáng khích lệ, các cây cao su cho mủ ngày càng nhiều”. “Chính từ giữa năm 1904, Yersin và Ver-Net bắt đầu nghiên cứu việc cạo mủ cao su tại Suối Dầu, một phần dựa vào các kết luận thực tiễn của ông Ridley giám đốc vườn thực vật Singapore đã có công nghiên cứu cách lấy mủ mà không gây ảnh hưởng xấu đến cây cao su”.
Chính các ông Yersin và Ver-Net tìm hiểu diễn biến của tỷ trọng mủ nước, tỷ lệ mủ khô xác định cây có thể mở miệng, thời vụ cạo mủ, giờ cạo mủ thích hợp trong ngày, hình dạng miệng cạo, độ sâu miệng cạo, dụng cụ dùng trong việc cạo mủ (dao đục, chén hứng mủ). Từ những nghiên cứu, tìm hiểu đó việc cạo cây cao su để lấy mủ đã được áp dụng, năm 1905 Suối Dầu chính thức mở miệng một số cây cao su trồng đầu tiên. Đợt đầu được 1.316 kg mủ khô gởi bán cho hãng Michelin ở Pháp được 18,50 Francs. Đây là cao su xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam và của Đông Dương.
Từ những nghiên cứu sinh lý cây cao su, tỷ lệ mủ (Drc) và phương pháp lấy mủ ông Ver-Net đưa ra nhận định rằng năng suất cao nhất tương ứng với nồng độ mủ bằng 40%, ông đề ra phương pháp cạo “Miệng ngắn (1 hay nhiều miệng), chiều dài không quá 15cm và mỗi ngày mỗi cạo (D1). Ông gợi ý cạo các kiểu:
Theo tài liệu cho biết phương pháp cạo này (mỗi ngày mỗi cạo) đã gây ảnh hưởng xấu đến vườn cây – vườn cây bắt đầu xơ xác. Về dao cạo mủ, ở Suối Dầu dùng con dao đục theo con dao đục của đồn điền Ketipigalla ở Ấn Độ. Nó giống như cái đục vũm của người thợ mộc, có lòng máng sâu, và từ cái đục vũm thẳng nó được uốn cong dần để trở thành cái đục của dân cạo ngày nay. Sau hơn 1 thế kỷ, dao cạo mủ cao su đã được cải tiến song về cơ bản giống nhau: gồm có 5 biến thể theo quy trình kỹ thuật cây cao su 2020: Dao cạo úp chuyên dùng; Dao cạo cải tiến lắp ghép; Dao cạo cải tiến; Dao cạo ngửa; Dao cạo ngửa lắp ghép. Cái chén hứng mủ đầu tiên của Suối Dầu là một cái cốc bằng kẽm một bên lõm để áp sát vào thân cây cao su.
Bằng nhiều tài liệu tác giả Đặng Văn Vinh đã trình bày khá tỉ mỉ chi tiết về chế độ cạo.
Từ năm 1914 chế độ cạo được áp dụng là cạo theo hình xương cá cạo d/1, cạo 365 ngày trong 1 năm.
Năm 1922 chuyển sang dần chế độ cạo s/2 d/2.
Năm 1940 chế độ cạo s d/4 đã trở thành phổ biến trong các đồn điền cao su ở Đông Dương.
Về tiêu chuẩn hóa động tác cạo mủ theo ông Đặng Văn Vinh cho biết tại công ty Đất Đỏ thời đó quy định gồm 7 động tác:
1. Gỡ chén bằng tay phải trong khi tay trái cho mủ dăm vào giỏ.
2. Xách giỏ và di chuyển sang cây bên cạnh.
3. Lau sạch chén và đặt ngay ngắn trên kiềng, dưới cái máng.
4. Gỡ mủ đông trên máng và trên miệng cạo.
6. Sửa cái chén bằng tay phải trong khi tay trái nhặt các mẫu mủ dăm rơi dưới đất.
7. Nếu trời mưa thì dùng một cọng lá hay cây tăm để dẫn mủ.
Đến năm 1945, Viện cao su Pháp IFC đưa ra 5 động tác:
1. Lấy chén dơ (bẩn) và đặt chén sạch lên kiềng.
5. Di chuyển sang cây bên cạnh, vừa đi vừa lau sạch chén.
Ngày nay công việc trước và sau khi cạo mủ từng cây được quy định rất đơn giản và ngắn gọn (Quy trình kỹ thuật cây cao su năm 2020) như sau: Trước khi cạo mủ, phải bóc mủ dây, mủ chén, sửa lại kiềng, máng, lau sạch chén và úp trên kiềng. Cạo xong, ngửa chén lên và dẫn mủ chảy vào chén rồi mới qua cạo cây khác. Đặc biệt, cần lưu ý việc dẫn mủ chảy vào chén đối với cạo úp có kiểm soát.
Việc kiểm tra cạo mủ đã được “định lượng hóa” chất lượng cạo mủ. Đầu những năm 30 của thế kỷ trước tại Công ty cao su Đất Đỏ:
Quy định cạo cách tương tầng từ 0 đến 1m/m.
Từ năm 1935 cơ chế và nội dung kiểm tra như sau: Kiểm tra bất kỳ 3-5 cây trong mỗi phần cây.
Ngày nay (Quy trình kỹ thuật cây cao su năm 2020) quy định 16 lỗi vi phạm, sát, phạm nhẹ, phạm nặng, cạn nhẹ, mỏng dăm, dày dăm nhẹ, dày dăm nặng, miệng cạo gợn sóng, miệng cạo lệch, không vuông góc, vệ sinh kém, cây bỏ cạo, tận thu kém, trang bị, chăm sóc cây kém, vi phạm cường độ cạo. Đây là những quy định hoàn chỉnh quy trình quản lý kỹ thuật thu hoạch mủ cao su trên vườn cây được kế thừa và phát triển mang tính khoa học, truyền thống và thực tiễn.
Ngày ấy, ông bà ta thế hệ công nhân cao su đầu tiên từ người nông dân trở thành người thợ, với kiếp đời nô lệ đã trồng, chăm sóc, khai thác cao su với bao đắng cay tủi nhục. Song họ là những người thợ rất đáng tự hào. Ông Van Huffel, một phụ tá đồn điền của Công ty cao su Đất Đỏ đã nhận xét về công nhân cạo mủ Việt Nam: “Chúng ta có một lực lượng lao động khéo tay một cách lạ kỳ và có một ý thức bẩm sinh trong việc tiết kiệm thao tác”. Ngợi ca là thế, song áp bức bóc lột bọn chủ đồn điền đã đặt ra hàng loạt những tội trạng để đánh hoặc cúp lương công nhân. Dưới đây là các tội mà công nhân già còn nhớ lại được (Lịch sử phong trào công nhân cao su đã ghi):
“Trong tất cả các loại hình phạt mà chúng áp dụng đối với công nhân thì hình phạt đối với việc “cạo phạm” là nặng nhất. Thông thường cứ đến ngày cuối tháng, chúng lại tổ chức đi kiểm tra ngoài lô một lần. Chúng đi dò từng cây cao su, hễ ai cạo phạm là chúng lôi ra trừng phạt một cách hết sức tàn nhẫn. Chúng bắt người công nhân “cạo phạm” đó nằm xuống bên gốc cây cao su rồi đánh, đánh xong chúng lấy mủ nước cao su dội lên đầu. Mà thứ mủ ấy đã bám vào đầu vào tóc thì khó bề mà gội sạch được. Phải dội dầu hôi lên đầu rồi gỡ từng mảng mủ. Nhưng khi gỡ hết mủ thì da đầu cũng tróc hết, đầu đỏ ối như bị bỏng. Có người đã chết vì hình phạt thâm độc này”. Vì vậy có ca dao rằng:
Trai thì bỏ xác, gái về còn xương”…
Mạng phu thật rẻ như bèo đâu ngoa”…
Mỗi cây bón một xác người công nhân
Càng tươi dòng mủ, càng bầm ruột gan”.
Là một bộ phận lịch sử trong toàn bộ lịch sử cao su Việt Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, các nông trường quốc doanh ra đời, Đảng và Chính phủ chủ trương phát triển cây cao su với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc. Từ khảo sát, khảo nghiệm với kinh nghiệm có được từ các cán bộ Nam Bộ tập kết ra Bắc, chúng ta đã đưa những hạt cao su đầu tiên nhập từ Trung Quốc trồng thành công trên 2 ha ở Nông trường Tây Hiếu ngày 13/10/1958. Sau đó nhân rộng phát triển ở các Nông trường ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị đến năm 1984 được 6.000 ha. Năm 1965 đào tạo công nhân cạo mủ đầu tiên.
Trong mưa bom bão đạn của chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, cây cao su bị tàn phá thiệt hại nặng nề, cây cao su cùng với người công nhân các Nông trường miền Bắc vẫn đứng vững cho những dòng nhựa trắng ngần. Vừa làm, vừa học tập kinh nghiệm của bạn, của Nam Bộ bổ sung vào quá trình sản xuất. Ông Phan Đắc Bằng, ông Đặng Văn Vinh nguyên Tổng cục phó Tổng cục Cao su Việt Nam là những người trong cuộc đã kể lại những câu chuyện thú vị trong giai đoạn phát triển cây cao su ở miền Bắc. Những câu chuyện về làm phân hữu cơ chăm sóc vườn cây, đào tạo tay nghề công nhân; Kiểm tra kỹ thuật cạo mủ; Cạo đèn; Luyện tay nghề, thi thợ giỏi… đến nay có ý nghĩa lịch sử, truyền thống và thực tiễn cho việc duy trì và phát triển cây cao su ở miền Trung, Tây Bắc.
Nếu nói về lịch sử hình thành của ngành cao su Việt Nam chúng ta phải khẳng định: Cây cao su được di nhập và trồng thành công ở Việt Nam năm 1897 cách đây 124 năm và miền Đông Nam bộ là xứ sở của cây cao su ở Việt Nam ngay từ ngày đầu và hiện nay là vùng trọng điểm cao su chiếm diện tích lớn nhất trong nước. Ngày nay cây cao su của VRG đã có mặt ổn định và phát triển ở miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, các tỉnh Tây Bắc, Đông Bắc, Lào và Campuchia.
Cây cao su – Nghề cao su – Người thợ ở Việt Nam đã trải qua 4 đời thợ, biết bao khổ đau, đấu tranh vất vả gian lao chiến đấu và chiến thắng. Cảm ơn tác giả Đặng Văn Vinh nguyên Tổng Cục phó Tổng Cục cao su Việt Nam trong tác phẩm: “100 năm cao su Việt Nam”. Bằng nhiều nguồn tư liệu tham khảo, nghiên cứu bằng sự trải nghiệm chính cuộc đời mình gắn bó với cây cao su từ Nam đến Bắc, bằng sự nhìn nhận khách quan, trung thực và khoa học. Ông đã tạo ra bức tranh toàn cảnh lịch sử cao su Việt Nam đến năm 2000.
Đây là tác phẩm lịch sử, khoa học có giá trị truyền thống của ngành cao su. Thế hệ người thợ công nhân hôm nay đang viết tiếp lịch sử cao su Việt Nam bằng công sức, trí tuệ và trái tim người thợ. Chúng ta đang có gần cả triệu ha cao su trong nước và nước ngoài. Sản lượng hàng năm hơn triệu tấn, năng suất vườn cây, năng suất lao động đứng đầu thế giới. Hàng chục ngàn người thợ, hàng ngàn kiện tướng, hàng ngàn “Bàn tay vàng” đã tạo nên thương hiệu VRG, khẳng định tính tiên phong, cách mạng đấu tranh liên tục của các thế hệ công nhân cao su. Một Tập đoàn kinh tế mạnh trong thời kỳ phát triển và hội nhập, chặng đường mới phát triển bền vững.
Tương lai gần, thời đại 4.0 máy móc có thể thay thế con người làm công việc cạo mủ. Song 124 năm qua các thế hệ người thợ đã làm nên lịch sử – Lịch sử cao su Việt Nam – “Cao su – Dòng chảy cuộc sống”.